Sinh lý bệnh bỏng
Dịch từ tài liệu hãng L&R: Burns General Information Dr_Alexey
Khi bỏng xảy ra, nó sẽ dẫn đến phản ứng tại chỗ và khi nghiêm trọng thì phản ứng toàn thân. Phản ứng tại chỗ và phản ứng toàn thân rất phức tạp và dẫn đến tổn hại cho cả mô tại chỗ và tổ chức mô xa vị trí vết thương. Tất cả các tổn hại phần lớn là do tình trạng viêm đáp ứng lại khi có vết thương.
I. PHẢN ỨNG TẠI CHỖ
Với bỏng do nhiệt tại chỗ sẽ xảy ra phản ứng đông cầm máu và có thể chia làm 3 vùng khác nhau:
Khi bỏng xảy ra, nó sẽ dẫn đến phản ứng tại chỗ và khi nghiêm trọng thì phản ứng toàn thân. Phản ứng tại chỗ và phản ứng toàn thân rất phức tạp và dẫn đến tổn hại cho cả mô tại chỗ và tổ chức mô xa vị trí vết thương. Tất cả các tổn hại phần lớn là do tình trạng viêm đáp ứng lại khi có vết thương.
I. PHẢN ỨNG TẠI CHỖ
Với bỏng do nhiệt tại chỗ sẽ xảy ra phản ứng đông cầm máu và có thể chia làm 3 vùng khác nhau:
1. Vùng đông cầm máu
Vùng đông cầm máu là vùng tổn thương nghiêm trọng nhất của vết bỏng. Nó được đặt tên như thế là kết quả của quá trình đông cầm máu của protein xảy ra trong da khi đốt, làm cho mô hoại tử hoặc mô chết đi (Jackson, 1953). Trước hết để làm lành vết thương thì các mô trong vùng này phải được loại bỏ, hoặc được làm sạch (Sterling et al, 2010).
2. Vùng ứ động
Vùng đông cầm máu nằm trong trung tâm vùng ứ động, và bao gồm cả da vùng da còn sống và da chết. Các mô trong vùng ứ động này trải qua sự co mạch và thiếu máu cục bộ, có thể dẫn đến giảm tưới máu, phù nề và nhiễm trùng có nghĩa là mô trong khu vực ứ động có thể bị hoại tử. Vì lý do này tái tưới máu vết thương là một phần quan trọng trong quản lý để đảm bảo mô khỏe mạnh có thể được bảo vệ (Hettiaratchy và Dziewulski, 2004). Các yếu tố như tuổi tác, bệnh nền, phù nề..v..v có thể dẫn đến sự tồn tại của khu vực ứ động. Do đó vùng này là vùng quyết định sự sống sót của mô bị ảnh hưởng nhiều (Hettiaratchy và Dziewulsi, 2004).
3. Vùng xung huyết
Hiện tượng xung huyết xảy ra như là kết quả của giãn mạch gây ra bởi sự giải phóng các chất trung gian gây viêm trên vết thương. Kết quả dịch ứ động và các mô còn sống sẽ được chỉnh sửa trừ khi xảy ra sự cố bất lợi như nhiễm trùng hoặc giảm tưới máu (Hettiaratchy và Dziewulsi, 2004).
II. PHẢN ỨNG TOÀN THÂN
Ở những bệnh nhân bị bỏng lớn ảnh hưởng đến 30% tổng diện tích bề mặt cơ thể (TBSA), phản ứng viêm toàn thân có thể được kích hoạt, tiến triển theo thời gian và cao nhất 5 - 7 ngày sau khi bỏng (Cakir và Yegen, 2004). Trong thời gian này có thể dẫn đến suy tạng. Bao gồm:
Vùng đông cầm máu là vùng tổn thương nghiêm trọng nhất của vết bỏng. Nó được đặt tên như thế là kết quả của quá trình đông cầm máu của protein xảy ra trong da khi đốt, làm cho mô hoại tử hoặc mô chết đi (Jackson, 1953). Trước hết để làm lành vết thương thì các mô trong vùng này phải được loại bỏ, hoặc được làm sạch (Sterling et al, 2010).
2. Vùng ứ động
Vùng đông cầm máu nằm trong trung tâm vùng ứ động, và bao gồm cả da vùng da còn sống và da chết. Các mô trong vùng ứ động này trải qua sự co mạch và thiếu máu cục bộ, có thể dẫn đến giảm tưới máu, phù nề và nhiễm trùng có nghĩa là mô trong khu vực ứ động có thể bị hoại tử. Vì lý do này tái tưới máu vết thương là một phần quan trọng trong quản lý để đảm bảo mô khỏe mạnh có thể được bảo vệ (Hettiaratchy và Dziewulski, 2004). Các yếu tố như tuổi tác, bệnh nền, phù nề..v..v có thể dẫn đến sự tồn tại của khu vực ứ động. Do đó vùng này là vùng quyết định sự sống sót của mô bị ảnh hưởng nhiều (Hettiaratchy và Dziewulsi, 2004).
3. Vùng xung huyết
Hiện tượng xung huyết xảy ra như là kết quả của giãn mạch gây ra bởi sự giải phóng các chất trung gian gây viêm trên vết thương. Kết quả dịch ứ động và các mô còn sống sẽ được chỉnh sửa trừ khi xảy ra sự cố bất lợi như nhiễm trùng hoặc giảm tưới máu (Hettiaratchy và Dziewulsi, 2004).
II. PHẢN ỨNG TOÀN THÂN
Ở những bệnh nhân bị bỏng lớn ảnh hưởng đến 30% tổng diện tích bề mặt cơ thể (TBSA), phản ứng viêm toàn thân có thể được kích hoạt, tiến triển theo thời gian và cao nhất 5 - 7 ngày sau khi bỏng (Cakir và Yegen, 2004). Trong thời gian này có thể dẫn đến suy tạng. Bao gồm:
- Tim mạch
- Hô hấp
- Thận
- Chuyển hóa
- Miễn dịch
1. Tim mạch
Sau khi bị bỏng, sẽ xuất hiện những thay đổi xảy ra trong hệ thống tim mạch có thể dẫn đến hạ kali trong máu. Sự giảm thể tích huyết tương này có thể đe dọa tính mạng và ưu tiên việc quản lý lưu lượng máu bị hạn chế. Trong giai đoạn cấp tính ban đầu theo dõi chấn thương từ bên ngoài đến nội tạng bên trong dẫn đến co mạch làm giảm lưu lượng máu đến các mô và nội tạng. Vết thương bỏng cũng gây ra sự giải phóng các chất trung gian gây viêm làm tăng tính thấm mao mạch, làm cho vết thương tăng dịch tiết ở nền vết thương để làm sạch và làm lành vết thương. Điều này làm tăng tính thấm, tuy nhiên cũng thúc đẩy dịch và protein của mô bị mất, hơn nữa làm giảm thể tích máu tuần hoàn (Hettiaratchy và Dziewulsi, 2004; Cakir và Yegen, 2004). Trong vòng vài phút sau khi bị bỏng, cung lượng tim giảm theo tỷ lệ với diện tích bỏng. Sau 48 tiếng thì giai đoạn tăng chuyển hóa trong và tăng lượng máu đến mô và cơ quan nên trong giai đoạn này phù hình thành nhanh. Tình trạng giảm co bóp tim cùng với hạ kali máu dẫn đến tim mất ổn định (Cakir và Yegen, 2004). |
2. Hô hấp
Suy hô hấp là nguyên nhân chính gây tử vong sau khi bị bỏng. Các chất trung gian gây viêm có thể dẫn đến co thắt phế quản và trong trường hợp bỏng nặng, người trưởng thành cũng có thể dẫn đến hội chứng suy hô hấp (Hettiaratchy và Dzewulsi,
2004).
Suy hô hấp là nguyên nhân chính gây tử vong sau khi bị bỏng. Các chất trung gian gây viêm có thể dẫn đến co thắt phế quản và trong trường hợp bỏng nặng, người trưởng thành cũng có thể dẫn đến hội chứng suy hô hấp (Hettiaratchy và Dzewulsi,
2004).
Chấn thương nhiệt dẫn đến thay đổi đáng kể về phổi, thậm chí không có tổn thương do hít phải. Viêm phổi có thể kéo dài ít nhất 5 ngày sau chấn thương. Chấn thương do hít phải là nguyên nhân chính gây tử vong cho các nạn nhân bỏng do thiếu oxy và các tác động nhiệt và hóa học bao gồm tăng huyết áp động mạch phổi, tắc nghẽn phế quản và tăng sức cản đường thở. (Cakir và Yegen, 2004).
3. Thận
3. Thận
Giảm thể tích tuần hoàn và giảm cung lượng tim là nguyên nhân gây ra giảm lưu lượng máu thận và độ lọc cầu thận. Nếu không được điều trị tốt, thiểu niệu có thể tiến triển thành suy thận cấp.
Đó là một biến chứng ở bệnh nhân bị bỏng nặng và có tỷ lệ tử vong cao ( Cakir và Yegen, 2004).
4. Chuyển hóa
Đó là một biến chứng ở bệnh nhân bị bỏng nặng và có tỷ lệ tử vong cao ( Cakir và Yegen, 2004).
4. Chuyển hóa
Tốc độ trao đổi chất cơ bản tăng lên gấp ba lần ban đầu. Cùng với tình trạng giảm tưới máu trong cơ thể, nên việc cần phải cho ăn đường ruột sớm và tích cực để giảm giải hóa và duy trì tính toàn vẹn của ruột (Hettiarachy và Dziewulski, 2004).
5. Miễn dịch
5. Miễn dịch
Tổn thương do bỏng gây ra ức chế miễn dịch, dẫn đến nhiễm trùng huyết và suy đa tạng, cả hai đều là nguyên nhân chính gây ra bệnh nặng hơn và tử vong cao hơn. Hơn nữa, tổn thương biểu bì làm cho bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng vì với mô hoại tử và dịch tiết vết thương tạo môi trường lý tưởng cho sự phát triển của vi trùng (Hettiarachy và dziewulski, 2004).
Trên đây là các kiến thức và thông tin hữu ích về sinh lý bệnh bỏng. Tại ANPHA TECH, chúng tôi cung cấp nhiều giải pháp chăm sóc vết thương phù hợp với từng tình trạng tổn thương và giai đoạn liền thương. Bạn có thể tham khảo các sản phẩm liên quan đến chăm sóc vết thương tại đây.