RỬA VẾT THƯƠNG THẬT SỰ CẦN THIẾT? HAY CHỈ LÀ MỘT TRÌNH TỰ PHẢI CÓ?
Dịch theo tài liệu: Jones_Wound cleansing is necessary, or just a ritual
Nhìn chung, bài viết này thảo luận về vấn đề làm sạch vết thương mãn tính. Tuy nhiên, một số trường hợp vết thương cấp tính cũng yêu cầu làm sạch. Mặc dù không có sự thống nhất và nhiều tranh luận liên quan đến sự khác biệt giữa những gì cấu thành một vết thương mãn tính hoặc cấp tính, nói chung là các vết thương như loét chân, loét tì đè, loét bàn chân đái tháo đường và vết thương do nấm là vết thương mãn tính. Vết thương mãn tính bị nhiễm bẩn, nhưng không phải lúc nào cũng bị nhiễm trùng. Các bệnh nhân đó sẽ mất nhiều thời gian hơn 4 đến 6 tuần để lành vết thương và với các bệnh nhân kèm theo các nguy cơ chẳng hạn như tuổi tác và bệnh tật cũng góp phần làm chậm quá trình lành thương.
Mặt khác, các vết thương cấp tính như vết thương phẫu thuật, chấn thương, hoặc vết bỏng thì quá trình lành thương trong một thời gian và tuân theo một trình tự nhất định (Fletcher, 2004).
I. SỰ PHÊ BÌNH VỀ LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Thuật ngữ chuẩn bị vết thương viết tắt là ”TIME” (mô, nhiễm trùng / viêm, độ ẩm, bờ) đang trở nên phổ biến khi thảo luận về quá trình lành thương và tầm quan trọng của việc chuẩn bị nền của vết thương (Dowsett và Newton, 2005). Làm sạch vết thương là một thủ thuật đã được thực hiện trong chăm sóc vết thương nhiều thế kỷ và mục đích của làm sạch vết thương là tạo một môi trường để thúc đẩy quá trình lành thương (Horrocks, 2006). Tuy nhiên, làm sạch vết thương là một khía cạnh của chăm sóc vết thương được coi là mang tính nghi thức, không dựa trên bằng chứng và không nhất quán (Young,1995; Towler, 2001; Watret và Armitage, 2002; Magson-Roberts, 2006). Chuẩn bị nền vết thương là bao gồm việc làm sạch, hoặc có một một vai trò để làm sạch vết thương?
Làm sạch vết thương là thủ thuật cần được thực hiện? Mục đích của bài viết này là để xem xét sự cần thiết của việc làm sạch vết thương, các giải pháp và phương pháp làm sạch vết thương.
II. LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Làm sạch được định nghĩa là loại bỏ mô (hoại tử) hoặc mảnh vụn từ vết thương và kể cả xung quanh vết thương cho đến khi có thể nhìn thấy được mô lành (Haemmerle et al, 2011). Có một số phương pháp làm sạch, và một số trong đó đòi hỏi kỹ năng chuyên môn.
- Cutting (2010) đưa ra hai định nghĩa về làm sạch vết thương. Đầu tiên là việc sử dụng dung dịch để loại bỏ các mảnh vụn dính lỏng lẻo và mô hoại tử từ bề mặt vết thương. Nhưng sau đó tiếp tục giải thích rằng một nhận định của Burrane (Fernandez et al, 2010) bởi Rodeematver và Ratliff (2007) định nghĩa việc làm sạch vết thương là loại bỏ các mảng bám bẩn trên bề mặt, vi khuẩn và những thứ còn sót lại bề mặt vết thương và vùng da xung quanh của vết thương (Rodeematver và Ratliff, 2007). Định nghĩa này được hỗ trợ bởi “Nguyên tắc thực hành lâm sàng là tốt nhất”(Principles of Best Practice). Nhiễm trùng vết thương trong lâm sàng (Wound infection in Clinical Practice) (MacGregor, 2008) khuyến nghị rằng vết thương bị nhiễm trùng nên được làm sạch mỗi lần thay băng, với mục đích loại bỏ mảnh vụn và vi trùng. Các định nghĩa làm sạch vết thương gợi ý rằng cần làm sạch ở một số vết thương, nhưng có thích hợp để làm sạch tất cả các vết thương không?
III. LÀM SẠCH HAY KHÔNG LÀM SẠCH?
- Theo Young (1995), vết thương thông thường làm sạch có thể được coi là lỗi thời và hình thức; làm sạch tất cả các vết thương là không cần thiết. Khi thảo luận về làm sạch vết thương những điều cần lưu ý: mặc dù làm sạch là lợi thế đối với một số vết thương (Khung 1), còn các vết thương khác thì không cần thiết.
Nhìn chung, bài viết này thảo luận về vấn đề làm sạch vết thương mãn tính. Tuy nhiên, một số trường hợp vết thương cấp tính cũng yêu cầu làm sạch. Mặc dù không có sự thống nhất và nhiều tranh luận liên quan đến sự khác biệt giữa những gì cấu thành một vết thương mãn tính hoặc cấp tính, nói chung là các vết thương như loét chân, loét tì đè, loét bàn chân đái tháo đường và vết thương do nấm là vết thương mãn tính. Vết thương mãn tính bị nhiễm bẩn, nhưng không phải lúc nào cũng bị nhiễm trùng. Các bệnh nhân đó sẽ mất nhiều thời gian hơn 4 đến 6 tuần để lành vết thương và với các bệnh nhân kèm theo các nguy cơ chẳng hạn như tuổi tác và bệnh tật cũng góp phần làm chậm quá trình lành thương.
Mặt khác, các vết thương cấp tính như vết thương phẫu thuật, chấn thương, hoặc vết bỏng thì quá trình lành thương trong một thời gian và tuân theo một trình tự nhất định (Fletcher, 2004).
I. SỰ PHÊ BÌNH VỀ LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Thuật ngữ chuẩn bị vết thương viết tắt là ”TIME” (mô, nhiễm trùng / viêm, độ ẩm, bờ) đang trở nên phổ biến khi thảo luận về quá trình lành thương và tầm quan trọng của việc chuẩn bị nền của vết thương (Dowsett và Newton, 2005). Làm sạch vết thương là một thủ thuật đã được thực hiện trong chăm sóc vết thương nhiều thế kỷ và mục đích của làm sạch vết thương là tạo một môi trường để thúc đẩy quá trình lành thương (Horrocks, 2006). Tuy nhiên, làm sạch vết thương là một khía cạnh của chăm sóc vết thương được coi là mang tính nghi thức, không dựa trên bằng chứng và không nhất quán (Young,1995; Towler, 2001; Watret và Armitage, 2002; Magson-Roberts, 2006). Chuẩn bị nền vết thương là bao gồm việc làm sạch, hoặc có một một vai trò để làm sạch vết thương?
Làm sạch vết thương là thủ thuật cần được thực hiện? Mục đích của bài viết này là để xem xét sự cần thiết của việc làm sạch vết thương, các giải pháp và phương pháp làm sạch vết thương.
II. LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Làm sạch được định nghĩa là loại bỏ mô (hoại tử) hoặc mảnh vụn từ vết thương và kể cả xung quanh vết thương cho đến khi có thể nhìn thấy được mô lành (Haemmerle et al, 2011). Có một số phương pháp làm sạch, và một số trong đó đòi hỏi kỹ năng chuyên môn.
- Cutting (2010) đưa ra hai định nghĩa về làm sạch vết thương. Đầu tiên là việc sử dụng dung dịch để loại bỏ các mảnh vụn dính lỏng lẻo và mô hoại tử từ bề mặt vết thương. Nhưng sau đó tiếp tục giải thích rằng một nhận định của Burrane (Fernandez et al, 2010) bởi Rodeematver và Ratliff (2007) định nghĩa việc làm sạch vết thương là loại bỏ các mảng bám bẩn trên bề mặt, vi khuẩn và những thứ còn sót lại bề mặt vết thương và vùng da xung quanh của vết thương (Rodeematver và Ratliff, 2007). Định nghĩa này được hỗ trợ bởi “Nguyên tắc thực hành lâm sàng là tốt nhất”(Principles of Best Practice). Nhiễm trùng vết thương trong lâm sàng (Wound infection in Clinical Practice) (MacGregor, 2008) khuyến nghị rằng vết thương bị nhiễm trùng nên được làm sạch mỗi lần thay băng, với mục đích loại bỏ mảnh vụn và vi trùng. Các định nghĩa làm sạch vết thương gợi ý rằng cần làm sạch ở một số vết thương, nhưng có thích hợp để làm sạch tất cả các vết thương không?
III. LÀM SẠCH HAY KHÔNG LÀM SẠCH?
- Theo Young (1995), vết thương thông thường làm sạch có thể được coi là lỗi thời và hình thức; làm sạch tất cả các vết thương là không cần thiết. Khi thảo luận về làm sạch vết thương những điều cần lưu ý: mặc dù làm sạch là lợi thế đối với một số vết thương (Khung 1), còn các vết thương khác thì không cần thiết.
- Ví dụ trong một số ca, mục đích của chăm sóc vết thương là giữ vết thương khô, điều này đặc biệt trong các vết thương hoại tử, để khô giúp thúc đẩy tự loại bỏ hoại tử (cơ thể loại bỏ mô hoại tử một cách tự nhiên) (Watret và Armitage, 2002).
- Đối với các vết thương khác, làm sạch có thể gây bất lợi và tổn thương mô mới, tổn thương nền vết thương và vùng da xung quanh vết thương (Main, 2008). Ví dụ, mô hạt mới rất mong manh và làm sạch vết thương dễ gây tổn thương vừa bất lợi và vừa không cần thiết.
- Không phải tất cả băng vết thương đều cần được làm sạch trước khi đắp gạc mới,ví dụ, băng xốp được thiết kế để cung cấp một môi trường ẩm và ấm nó không để lại dư lượng băng trên nền vết thương (Watret và Armitage, 2002).
- Do đó một đánh giá tổng thể nên luôn luôn được thực hiện vì đó là điều kiện tiên quyết để quản lý thành công và có hiệu quả tốt trong công tác điều trị vết thương (Benbow, 2011). Đánh giá là một quy trình luôn diễn ra để xác định những thay đổi xảy ra với tiến triển của vết thương. Do đó, điều quan trọng là phải có kế hoạch chăm sóc để đáp ứng nhu cầu của cả hai: vết thương và bệnh nhân. Luôn đảm bảo rằng những thay đổi được ghi lại, chứng minh và tuân thủ các phát đồ điều trị.
Phần trong khung 1: liệt kê các chỉ định để làm sạch vết thương và một số trong số này sẽ được thảo luận chi tiết hơn theo quy trình làm sạch vết thương.
Với hình 1 và 2 minh họa lợi ích của việc làm sạch.
- Đối với các vết thương khác, làm sạch có thể gây bất lợi và tổn thương mô mới, tổn thương nền vết thương và vùng da xung quanh vết thương (Main, 2008). Ví dụ, mô hạt mới rất mong manh và làm sạch vết thương dễ gây tổn thương vừa bất lợi và vừa không cần thiết.
- Không phải tất cả băng vết thương đều cần được làm sạch trước khi đắp gạc mới,ví dụ, băng xốp được thiết kế để cung cấp một môi trường ẩm và ấm nó không để lại dư lượng băng trên nền vết thương (Watret và Armitage, 2002).
- Do đó một đánh giá tổng thể nên luôn luôn được thực hiện vì đó là điều kiện tiên quyết để quản lý thành công và có hiệu quả tốt trong công tác điều trị vết thương (Benbow, 2011). Đánh giá là một quy trình luôn diễn ra để xác định những thay đổi xảy ra với tiến triển của vết thương. Do đó, điều quan trọng là phải có kế hoạch chăm sóc để đáp ứng nhu cầu của cả hai: vết thương và bệnh nhân. Luôn đảm bảo rằng những thay đổi được ghi lại, chứng minh và tuân thủ các phát đồ điều trị.
Phần trong khung 1: liệt kê các chỉ định để làm sạch vết thương và một số trong số này sẽ được thảo luận chi tiết hơn theo quy trình làm sạch vết thương.
Với hình 1 và 2 minh họa lợi ích của việc làm sạch.
IV. GIẢI PHÁP LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Một khi việc làm sạch vết thương được thiết lập là điều cần thiết thì bước tiếp theo là chọn một giải pháp thích hợp. Theo thời gian, có nhiều giải pháp khác nhau từ dùng rong biển đến dùng hypochlorites đã được sử dụng để làm sạch vết thương (Watret và Armitage, 2002). Tuy nhiên, Main (2008) giải thích rằng giải pháp làm sạch ngày nay nên:
V. RỬA VẾT THƯƠNG BẰNG NƯỚC MUỐI SINH LÝ HAY NƯỚC MÁY UỐNG ĐƯỢC?
- Các giải pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là nước muối sinh lý và nước máy uống được. Nước đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để làm sạch vết thương không có tác dụng bất lợi và là một ví dụ tốt được nhìn thấy trong chính ngôi nhà của chúng ta, vết thương thường được làm sạch bằng nước máy uống được (Magson-Roberts, 2006).
- Hàng trăm bệnh nhân tại các phòng khám cộng đồng và câu lạc bộ bàn chân có vết thương rửa bằng nước máy uống được thì không có sự gia tăng rõ rệt về tỷ lệ nhiễm trùng hoặc bất kỳ tác dụng phụ khác được xác định. Lindsay (2007) giải thích rằng rửa bàn chân cho bệnh nhân có loét ở bàn chân với cách điều trị và ngâm chân trong một xô nước ấm sẽ mang lại cho bệnh nhân cảm giác an toàn. Điều này đặc biệt có liên quan ở những bệnh nhân bị loét đang được điều trị bằng băng ép và phải băng bó tối đa 7 ngày (Watret và Armitage, 2002; Lindsay, 2007).
- Tuy nhiên, Sibbald et al (2000), khi thảo luận về việc chuẩn bị vết thương, khuyến cáo rằng nước muối sinh lí hoặc nước vô trùng là những tác nhân được lựa chọn và nếu nước máy được sử dụng nên được làm sạch trước; và không nên sử dụng cho bệnh nhân bị ức chế miễn dịch.
- Tuy nhiên, một đánh giá gần đây của Cochrane (Fernandez et al, 2010) đã kết luận rằng không có bằng chứng sử dụng nước để rửa vết thương làm tăng nhiễm trùng; trong thực tế, có một số bằng chứng cho thấy nó thực sự giảm nhiễm trùng. Do đó nước máy uống được có thể được coi là thích hợp cho chăm sóc một số vết thương (ví dụ: ngâm loét bàn chân).
VI. DUNG DỊCH SÁT TRÙNG:
- Việc sử dụng các giải pháp sát trùng để làm sạch vết thương đã được đặt câu hỏi và Main (2008) báo cáo rằng thuốc sát trùng đã được được nhận thấy là bất lợi để chữa lành vết thương. Sibbald et al (2000) cũng đề xuất sử dụng thuốc sát trùng, nhưng nó không ảnh hưởng quá trình lành thương mà chỉ tiêu diệt vi trùng tại chỗ thúc đẩy quá trình lành thương nhanh hơn. Cũng có các tranh luận rằng thuốc sát trùng nhanh chóng bị biến tính khi tiếp xúc với dịch cơ thể và độc hại cho mô lành (Watret và Armitage, 2002).
- Tuy nhiên, vết thương bị nhiễm trùng nước muối sinh lý và nước bình thường có thể không thích hợp để giải quyết trong các trường hợp đặc biệt là vết thương có màng biofilm của vi trùng. Hiện tại chúng ta đang làm sạch và dùng kháng sinh. Màng biofilm của vi trùng là gồm nhiều vi trùng phức tạp tạo ra một chất giống như chất nhờn bám chặt vào nhau tạo thành 1 cái màng gồm protein, axit nucleic, polysaccharides và gắn vào bề mặt vết thương (Cutting, 2010). Mảng bám răng là một ví dụ về màng sinh học này (Horrocks, 2006).
VII. GIẢI PHÁP RỬA VẾT THƯƠNG VÀ GEL (Prontosan):
- Horrocks (2006) đã đánh giá một giải pháp rửa vết thương và gel Prontosan, có chứa polyhexamethylene biguanide (PHMB) và betadine chất hoạt động bề mặt và báo cáo rằng trong một nghiên cứu nhỏ thì 7 trong số 10 các bệnh nhân đã chứng minh sự cải thiện đáng kể các vết thương của họ trong vòng một thời gian 3 tuần.
- Nhân viên Điều Dưỡng báo cáo khi loại bỏ các màng biofilm dẫn đến dịch tiết vết thương giảm. Horrocks (2006) đã kết luận rằng rửa vết thương bằng Prontosan đối với các vết thương có màng biofilm thì an toàn và hiệu quả chi phí hơn. Nó không làm đau và góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (Horrocks, 2006; Cutting, 2010).
VIII. NHIỆT ĐỘ DUNG DỊCH RỬA:
- Rõ ràng là việc lựa chọn đúng giải pháp để làm sạch vết thương không đơn giản và lựa chọn giải pháp cho phù hợp nhất phụ thuộc vào những nhận định và đánh giá toàn diện của nhân viên y tế và tình trạng bệnh nhân.
- Tuy nhiên, nhiệt độ của dung dịch làm sạch vết thương rất quan trọng. Các nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình lành thương và nhiệt độ tốt nhất để vết thương lành nhanh là từ 36°C đến 38°C, với sự chậm lành thương được chứng minh khi nhiệt độ xuống dưới nhiệt độ cơ thể hoặc tăng trên 42°C. Do đó nhiệt độ rất quan trọng và đảm bảo rằng các giải pháp có thể được sử dụng bất kì nơi đâu và làm ấm.
- Không sử dụng các giải pháp mất tới 40 phút có thể dẫn đến giảm nhiệt độ cho vết thương và ta mất lên đến 3 giờ để mô tế bào vết thương phân chia trở lại nhiệt độ bình thường (McGuiness et al, 2004; MagsonRoberts, 2006).
- Kỹ thuật làm sạch vết thương và vai trò của HCA (health Care Assistants: người hỗ trợ chăm sóc sức khỏe) và AP (Assistant Practitioners: người hỗ trợ thực hành)
- Vai trò của HCA và AP là phụ thuộc trên phát đồ điều trị tại chỗ. Tuy nhiên, mỗi HCA và AP liên quan đến chăm sóc vết thương cần quan tâm đến các khuyến nghị dựa trên bằng chứng liên quan đến việc làm sạch vết thương trong tất cả các khía cạnh. Ngay cả khi HCA hoặc AP không liên quan trong quy trình làm sạch vết thương, người đó có thể chịu trách nhiệm chuẩn bị làm sạch và thay băng vết thương.
- Dựa trên kết quả đánh giá vết thương, phát đồ điều trị và lựa chọn của bệnh nhân ta sẽ chọn ra phương pháp phù hợp nhất (Watret và Armitage, 2002).
- Ví dụ, đối với bệnh nhân bị loét chân, việc vệ sinh tốt có thể cải thiện chất lượng đời sống. Ngâm chân tay trong nước ấm hỗ trợ trong việc loại bỏ sự tích tụ của dịch tiết và mảng nhầy, việc đó làm sạch vết thương mà không gây tổn thương mô hạt tốt hoặc tế bào biểu bì. Và việc ngâm rửa bàn chân, vệ sinh cá nhân mang lại lợi ích tốt cho việc lành vết loét (Watret và Armitage, 2002; Lindsay, 2007).
- Ví dụ một bệnh nhân bị nang lông hoặc bỏng, có thể thấy ngâm bồn hoặc tắm vòi sen là phương pháp lựa chọn. Phương pháp này bệnh nhân tự kiểm soát ở bất cứ đâu, có thể tự thay băng tự chăm sóc. Để ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm chéo, điều quan trọng là phải tuân theo các chính sách kiểm soát lây nhiễm sử dụng các dụng cụ thích hợp. Ví dụ, lót thùng và rửa các dụng cụ sau khi sử dụng.
IX. GẠC ĐỂ LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Khi rửa vết thương việc mang găng tay lau được khuyến khích hơn việc dùng kiềm. Tuy nhiên, điều quan trọng là sử dụng gạc, bông không dệt để sau khi rửa không bám lại trên vết thương. Mặc dù dùng gạc, bông để lấy đi mô hoại tử, mảng bám làm sạch vết thương nhưng nó lại là nguy cơ gây chảy máu và đau cho bệnh nhân.(Towler, 2001)
- Young (1995) cho rằng gạc không có khả năng lấy đi được mảng bám và mô hoại tử và giải thích rằng quan trọng là lực chà rửa, mặc dù đo áp lực phù hợp là rất khó khăn. Ngày nay, những siêu sợi đơn có khả năng loại bỏ mảng bám nhẹ nhàng mà không gây tổn thương và đau.
1. Dùng Các Siêu sợi đơn để chà rửa vết thương
(Gạc chà rửa vết thương Debrisoft)(Xem chi tiết)
- Gạc chà rửa vết thương Debrisoft được mô tả bởi nhà sản xuất với các siêu sợi hoạt động nhanh, hiệu quả cao, có thể loại bỏ nhanh chóng các mảnh vụn, mô hoại tử, mảng bám, vi khuẩn và dịch tiết ra khỏi đáy vết thương, cũng như vảy tăng sừng xung quanh vết thương.
- Được coi như là 1 miếng gạc nhưng gạc làm sạch vết thương Debrisoft có thể làm sạch vết thương như lấy đi mảng bám, vẩy cứng (hình 1 và 2 trước và sau khi chà rửa) và lấy đi cả các mô tăng sừng xung quanh vết thương (Benbow,2011). Gạc làm sạch vết thương Debrisoft được dệt từ 100% sợi đơn polyester, với bề mặt bên ngoài được phủ bằng polyacrylate,do đó các sợi bám chắt và ngăn ngừa sợi rụng và bám lại trên vết thương.
- Haemmerle et al (2011) giải thích rằng việc làm sạch vết thương có thể sử dụng một miếng gạc hoặc có thể kết hợp với bất kỳ vật liệu làm sạch khác được lựa chọn để giảm đau và tiết kiệm thời gian.
2. Tưới rửa
- Làm sạch bằng việc tưới rửa được coi là lợi thế. Tuy nhiên, đã có rất nhiều tranh luận liên quan đến các thiết bị phù hợp nhất và áp lực cần thiết để có hiệu quả làm sạch vết thương mà không gây chấn thương (Towler, 2001).
- Ngày nay, có những sản phẩm trên thị trường như bình xịt đã được thiết kế để xịt tưới rửa tạo áp lực thích hợp mà không gây ra tổn thương. Loại bỏ yếu tố không cần thiết. Và cũng cần có dụng cụ hỗ trợ như bơm tiêm, kiềm (Williams, 1999).
3. Chăm sóc bệnh nhân
- Nên giải thích tất cả các thông tin và kiến thức về phát đồ điều trị cho bệnh nhân nắm rõ và được sự đồng ý của họ. Đặt bệnh nhân ở 1 vị trí thoải mái.
- Hãy chắc chắn rằng mọi thứ đã được chuẩn bị trước khi bắt đầu làm thủ thuật và đảm bảo nơi đó có thể thực hiện được, đo thân nhiệt.
- Một số bệnh nhân có thể lo lắng rằng khi không rửa làm sạch vết thương vì thế cần giải thích cho bệnh nhân hiểu lý do tại sao không cần thiết để rửa vết thương (Watret và Armitage, 2002).
- Khi kết thúc thủ thuật, đảm bảo bệnh nhân thoải mái. Bỏ rác hay những dụng cụ lây nhiễm và xử lý đúng quy định. Báo cáo khi có bất kỳ thay đổi hoặc liên quan.
4. Phần kết luận
- Làm sạch vết thương thích hợp là một thành phần quan trọng của việc chuẩn bị nền vết thương. Làm sạch vết thương thường được xem là một thủ thuật không cần thiết mang tính hình thức và không dựa trên bằng chứng nghiên cứu.
- Tuy nhiên, sau một đánh giá tổng thể cung cấp giải pháp thích hợp nhất và kỹ thuật làm sạch vết thương được lựa chọn thì việc làm sạch vết thương có thể phù hợp và mang lại lợi ích cho lành thương
- Tùy thuộc vào chính sách mỗi quốc gia, HCAs và APs có thể có trực tiếp hoặc gián tiếp để làm sạch vết thương. Khi cần cung cấp thêm những thứ hỗ trợ trong chăm sóc vết thương mà không gây ảnh hưởng quá trình lành thương thì HCAs và APs cần phải có sự hiểu biết về bằng chứng hiện tại và có sẵn.
- Một khi việc làm sạch vết thương được thiết lập là điều cần thiết thì bước tiếp theo là chọn một giải pháp thích hợp. Theo thời gian, có nhiều giải pháp khác nhau từ dùng rong biển đến dùng hypochlorites đã được sử dụng để làm sạch vết thương (Watret và Armitage, 2002). Tuy nhiên, Main (2008) giải thích rằng giải pháp làm sạch ngày nay nên:
- Không độc hại với mô
- Giảm số lượng vi trùng
- Không gây ra phản ứng nhạy cảm
- Hiệu quả của sự hiện diện các vật liệu hữu cơ
- Hàng có sẵn phổ biến và hiệu quả chi phí.
V. RỬA VẾT THƯƠNG BẰNG NƯỚC MUỐI SINH LÝ HAY NƯỚC MÁY UỐNG ĐƯỢC?
- Các giải pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là nước muối sinh lý và nước máy uống được. Nước đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để làm sạch vết thương không có tác dụng bất lợi và là một ví dụ tốt được nhìn thấy trong chính ngôi nhà của chúng ta, vết thương thường được làm sạch bằng nước máy uống được (Magson-Roberts, 2006).
- Hàng trăm bệnh nhân tại các phòng khám cộng đồng và câu lạc bộ bàn chân có vết thương rửa bằng nước máy uống được thì không có sự gia tăng rõ rệt về tỷ lệ nhiễm trùng hoặc bất kỳ tác dụng phụ khác được xác định. Lindsay (2007) giải thích rằng rửa bàn chân cho bệnh nhân có loét ở bàn chân với cách điều trị và ngâm chân trong một xô nước ấm sẽ mang lại cho bệnh nhân cảm giác an toàn. Điều này đặc biệt có liên quan ở những bệnh nhân bị loét đang được điều trị bằng băng ép và phải băng bó tối đa 7 ngày (Watret và Armitage, 2002; Lindsay, 2007).
- Tuy nhiên, Sibbald et al (2000), khi thảo luận về việc chuẩn bị vết thương, khuyến cáo rằng nước muối sinh lí hoặc nước vô trùng là những tác nhân được lựa chọn và nếu nước máy được sử dụng nên được làm sạch trước; và không nên sử dụng cho bệnh nhân bị ức chế miễn dịch.
- Tuy nhiên, một đánh giá gần đây của Cochrane (Fernandez et al, 2010) đã kết luận rằng không có bằng chứng sử dụng nước để rửa vết thương làm tăng nhiễm trùng; trong thực tế, có một số bằng chứng cho thấy nó thực sự giảm nhiễm trùng. Do đó nước máy uống được có thể được coi là thích hợp cho chăm sóc một số vết thương (ví dụ: ngâm loét bàn chân).
VI. DUNG DỊCH SÁT TRÙNG:
- Việc sử dụng các giải pháp sát trùng để làm sạch vết thương đã được đặt câu hỏi và Main (2008) báo cáo rằng thuốc sát trùng đã được được nhận thấy là bất lợi để chữa lành vết thương. Sibbald et al (2000) cũng đề xuất sử dụng thuốc sát trùng, nhưng nó không ảnh hưởng quá trình lành thương mà chỉ tiêu diệt vi trùng tại chỗ thúc đẩy quá trình lành thương nhanh hơn. Cũng có các tranh luận rằng thuốc sát trùng nhanh chóng bị biến tính khi tiếp xúc với dịch cơ thể và độc hại cho mô lành (Watret và Armitage, 2002).
- Tuy nhiên, vết thương bị nhiễm trùng nước muối sinh lý và nước bình thường có thể không thích hợp để giải quyết trong các trường hợp đặc biệt là vết thương có màng biofilm của vi trùng. Hiện tại chúng ta đang làm sạch và dùng kháng sinh. Màng biofilm của vi trùng là gồm nhiều vi trùng phức tạp tạo ra một chất giống như chất nhờn bám chặt vào nhau tạo thành 1 cái màng gồm protein, axit nucleic, polysaccharides và gắn vào bề mặt vết thương (Cutting, 2010). Mảng bám răng là một ví dụ về màng sinh học này (Horrocks, 2006).
VII. GIẢI PHÁP RỬA VẾT THƯƠNG VÀ GEL (Prontosan):
- Horrocks (2006) đã đánh giá một giải pháp rửa vết thương và gel Prontosan, có chứa polyhexamethylene biguanide (PHMB) và betadine chất hoạt động bề mặt và báo cáo rằng trong một nghiên cứu nhỏ thì 7 trong số 10 các bệnh nhân đã chứng minh sự cải thiện đáng kể các vết thương của họ trong vòng một thời gian 3 tuần.
- Nhân viên Điều Dưỡng báo cáo khi loại bỏ các màng biofilm dẫn đến dịch tiết vết thương giảm. Horrocks (2006) đã kết luận rằng rửa vết thương bằng Prontosan đối với các vết thương có màng biofilm thì an toàn và hiệu quả chi phí hơn. Nó không làm đau và góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (Horrocks, 2006; Cutting, 2010).
VIII. NHIỆT ĐỘ DUNG DỊCH RỬA:
- Rõ ràng là việc lựa chọn đúng giải pháp để làm sạch vết thương không đơn giản và lựa chọn giải pháp cho phù hợp nhất phụ thuộc vào những nhận định và đánh giá toàn diện của nhân viên y tế và tình trạng bệnh nhân.
- Tuy nhiên, nhiệt độ của dung dịch làm sạch vết thương rất quan trọng. Các nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình lành thương và nhiệt độ tốt nhất để vết thương lành nhanh là từ 36°C đến 38°C, với sự chậm lành thương được chứng minh khi nhiệt độ xuống dưới nhiệt độ cơ thể hoặc tăng trên 42°C. Do đó nhiệt độ rất quan trọng và đảm bảo rằng các giải pháp có thể được sử dụng bất kì nơi đâu và làm ấm.
- Không sử dụng các giải pháp mất tới 40 phút có thể dẫn đến giảm nhiệt độ cho vết thương và ta mất lên đến 3 giờ để mô tế bào vết thương phân chia trở lại nhiệt độ bình thường (McGuiness et al, 2004; MagsonRoberts, 2006).
- Kỹ thuật làm sạch vết thương và vai trò của HCA (health Care Assistants: người hỗ trợ chăm sóc sức khỏe) và AP (Assistant Practitioners: người hỗ trợ thực hành)
- Vai trò của HCA và AP là phụ thuộc trên phát đồ điều trị tại chỗ. Tuy nhiên, mỗi HCA và AP liên quan đến chăm sóc vết thương cần quan tâm đến các khuyến nghị dựa trên bằng chứng liên quan đến việc làm sạch vết thương trong tất cả các khía cạnh. Ngay cả khi HCA hoặc AP không liên quan trong quy trình làm sạch vết thương, người đó có thể chịu trách nhiệm chuẩn bị làm sạch và thay băng vết thương.
- Dựa trên kết quả đánh giá vết thương, phát đồ điều trị và lựa chọn của bệnh nhân ta sẽ chọn ra phương pháp phù hợp nhất (Watret và Armitage, 2002).
- Ví dụ, đối với bệnh nhân bị loét chân, việc vệ sinh tốt có thể cải thiện chất lượng đời sống. Ngâm chân tay trong nước ấm hỗ trợ trong việc loại bỏ sự tích tụ của dịch tiết và mảng nhầy, việc đó làm sạch vết thương mà không gây tổn thương mô hạt tốt hoặc tế bào biểu bì. Và việc ngâm rửa bàn chân, vệ sinh cá nhân mang lại lợi ích tốt cho việc lành vết loét (Watret và Armitage, 2002; Lindsay, 2007).
- Ví dụ một bệnh nhân bị nang lông hoặc bỏng, có thể thấy ngâm bồn hoặc tắm vòi sen là phương pháp lựa chọn. Phương pháp này bệnh nhân tự kiểm soát ở bất cứ đâu, có thể tự thay băng tự chăm sóc. Để ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm chéo, điều quan trọng là phải tuân theo các chính sách kiểm soát lây nhiễm sử dụng các dụng cụ thích hợp. Ví dụ, lót thùng và rửa các dụng cụ sau khi sử dụng.
IX. GẠC ĐỂ LÀM SẠCH VẾT THƯƠNG:
- Khi rửa vết thương việc mang găng tay lau được khuyến khích hơn việc dùng kiềm. Tuy nhiên, điều quan trọng là sử dụng gạc, bông không dệt để sau khi rửa không bám lại trên vết thương. Mặc dù dùng gạc, bông để lấy đi mô hoại tử, mảng bám làm sạch vết thương nhưng nó lại là nguy cơ gây chảy máu và đau cho bệnh nhân.(Towler, 2001)
- Young (1995) cho rằng gạc không có khả năng lấy đi được mảng bám và mô hoại tử và giải thích rằng quan trọng là lực chà rửa, mặc dù đo áp lực phù hợp là rất khó khăn. Ngày nay, những siêu sợi đơn có khả năng loại bỏ mảng bám nhẹ nhàng mà không gây tổn thương và đau.
1. Dùng Các Siêu sợi đơn để chà rửa vết thương
(Gạc chà rửa vết thương Debrisoft)(Xem chi tiết)
- Gạc chà rửa vết thương Debrisoft được mô tả bởi nhà sản xuất với các siêu sợi hoạt động nhanh, hiệu quả cao, có thể loại bỏ nhanh chóng các mảnh vụn, mô hoại tử, mảng bám, vi khuẩn và dịch tiết ra khỏi đáy vết thương, cũng như vảy tăng sừng xung quanh vết thương.
- Được coi như là 1 miếng gạc nhưng gạc làm sạch vết thương Debrisoft có thể làm sạch vết thương như lấy đi mảng bám, vẩy cứng (hình 1 và 2 trước và sau khi chà rửa) và lấy đi cả các mô tăng sừng xung quanh vết thương (Benbow,2011). Gạc làm sạch vết thương Debrisoft được dệt từ 100% sợi đơn polyester, với bề mặt bên ngoài được phủ bằng polyacrylate,do đó các sợi bám chắt và ngăn ngừa sợi rụng và bám lại trên vết thương.
- Haemmerle et al (2011) giải thích rằng việc làm sạch vết thương có thể sử dụng một miếng gạc hoặc có thể kết hợp với bất kỳ vật liệu làm sạch khác được lựa chọn để giảm đau và tiết kiệm thời gian.
2. Tưới rửa
- Làm sạch bằng việc tưới rửa được coi là lợi thế. Tuy nhiên, đã có rất nhiều tranh luận liên quan đến các thiết bị phù hợp nhất và áp lực cần thiết để có hiệu quả làm sạch vết thương mà không gây chấn thương (Towler, 2001).
- Ngày nay, có những sản phẩm trên thị trường như bình xịt đã được thiết kế để xịt tưới rửa tạo áp lực thích hợp mà không gây ra tổn thương. Loại bỏ yếu tố không cần thiết. Và cũng cần có dụng cụ hỗ trợ như bơm tiêm, kiềm (Williams, 1999).
3. Chăm sóc bệnh nhân
- Nên giải thích tất cả các thông tin và kiến thức về phát đồ điều trị cho bệnh nhân nắm rõ và được sự đồng ý của họ. Đặt bệnh nhân ở 1 vị trí thoải mái.
- Hãy chắc chắn rằng mọi thứ đã được chuẩn bị trước khi bắt đầu làm thủ thuật và đảm bảo nơi đó có thể thực hiện được, đo thân nhiệt.
- Một số bệnh nhân có thể lo lắng rằng khi không rửa làm sạch vết thương vì thế cần giải thích cho bệnh nhân hiểu lý do tại sao không cần thiết để rửa vết thương (Watret và Armitage, 2002).
- Khi kết thúc thủ thuật, đảm bảo bệnh nhân thoải mái. Bỏ rác hay những dụng cụ lây nhiễm và xử lý đúng quy định. Báo cáo khi có bất kỳ thay đổi hoặc liên quan.
4. Phần kết luận
- Làm sạch vết thương thích hợp là một thành phần quan trọng của việc chuẩn bị nền vết thương. Làm sạch vết thương thường được xem là một thủ thuật không cần thiết mang tính hình thức và không dựa trên bằng chứng nghiên cứu.
- Tuy nhiên, sau một đánh giá tổng thể cung cấp giải pháp thích hợp nhất và kỹ thuật làm sạch vết thương được lựa chọn thì việc làm sạch vết thương có thể phù hợp và mang lại lợi ích cho lành thương
- Tùy thuộc vào chính sách mỗi quốc gia, HCAs và APs có thể có trực tiếp hoặc gián tiếp để làm sạch vết thương. Khi cần cung cấp thêm những thứ hỗ trợ trong chăm sóc vết thương mà không gây ảnh hưởng quá trình lành thương thì HCAs và APs cần phải có sự hiểu biết về bằng chứng hiện tại và có sẵn.
Xem chi tiết hơn tại Jones_Wound cleansing is necessary, or just a ritual
Trên đây là các kiến thức và thông tin hữu ích về rửa vết thương. Tại ANPHA TECH, chúng tôi cung cấp nhiều giải pháp chăm sóc vết thương phù hợp với từng tình trạng tổn thương và giai đoạn liền thương. Bạn có thể tham khảo các sản phẩm liên quan đến chăm sóc vết thương tại đây.
Tài liệu tham khảo:
Benbow M (2011a) Wound care: ensuring a holistic and collaborative assessment. Wound Care. 16(Suppl 9): S6–16
Benbow M (2011b) Using Debrisoft for wound debridement. Journal of Community Nursing 25(5): 17–18
Cutting K (2010) Addressing the challenge of wound cleansing in the modern era. Br J Nurs 19(Suppl 11): S24–9
Dowsett C, Newton H (2005) Wound bed preparation: TIME in practice. Wounds UK 1(3): 58–70 Fernandez R, Griffiths R, Ussia C (2010) Water for wound cleansing (review). Cochrane Database Syst Rev 2010: CD 003861 (accessed 8 May 2012)
Fletcher J (2004) Acute or chronic? Pitfalls of using standard criteria to define wounds. Professional Nurse 19(8): 440–1
Haemmerle G, Duelli H, Abel M, Strohal R (2011) The wound debrider: a new monofilament fibre technology. Br J Nurs 20(Suppl 6): S35–42
Horrocks A (2006) Prontosan wound irrigation and gel: management of chronic wounds. Br J Nurs 15(22): 1222–8
Lindsay E (2007) To wash or not to wash: What is the solution for chronic leg ulcers? Wound Essentials 2: 74–83
Magson-Roberts S (2006) Is tap water a safe alternative to normal saline for wound cleansing? Journal of Community Nursing 20(8): 19–24
Main RC (2008) Should chlorhexidine gluconate be used in wound cleansing? J Wound Care 17(3): 112–4
McGuiness W, Vella E, Harrison D (2004) Influence of dressing changes on wound temperature. J Wound Care 13(9): 383–5
MacGregor L (2008) Principles of Best Practice: Wound Infection in Clinical Practice. An International Consensus. http://global.smith-nephew. com/cps/rde/xbcr/smithnephewls_master/ WoundInfSN_English.pdf (accessed 3 May 2012)
Rodeheaver GT, Ratliff CR (2007) Wound cleansing, wound irrigation, wound disinfection. In: Cutting K (2010) Addressing the challenge of wound cleansing in the modern era. Br J Nurs 19(Suppl 11): S24–9
Sibbald G, Williamson D, Orsted HL et al (2000) Preparing the wound bed—debridement, bacterial balance and moisture balance. Ostomy Wound Manage 46(11): 14–35
Towler J (2001). Cleansing traumatic wounds with swabs, water or saline. J Wound Care 10(6): 231–4 Watret L, Armitage M (2002) Making sense of wound cleansing. Journal of Community Nursing 16(4): 27–34
Williams C (1999) Wound irrigation techniques. Br J Nurs 8(21): 1460–2
Young T (1995) Common problems in wound care: wound cleansing. Br J Nurs 4(5): 286–9
Trên đây là các kiến thức và thông tin hữu ích về rửa vết thương. Tại ANPHA TECH, chúng tôi cung cấp nhiều giải pháp chăm sóc vết thương phù hợp với từng tình trạng tổn thương và giai đoạn liền thương. Bạn có thể tham khảo các sản phẩm liên quan đến chăm sóc vết thương tại đây.
Tài liệu tham khảo:
Benbow M (2011a) Wound care: ensuring a holistic and collaborative assessment. Wound Care. 16(Suppl 9): S6–16
Benbow M (2011b) Using Debrisoft for wound debridement. Journal of Community Nursing 25(5): 17–18
Cutting K (2010) Addressing the challenge of wound cleansing in the modern era. Br J Nurs 19(Suppl 11): S24–9
Dowsett C, Newton H (2005) Wound bed preparation: TIME in practice. Wounds UK 1(3): 58–70 Fernandez R, Griffiths R, Ussia C (2010) Water for wound cleansing (review). Cochrane Database Syst Rev 2010: CD 003861 (accessed 8 May 2012)
Fletcher J (2004) Acute or chronic? Pitfalls of using standard criteria to define wounds. Professional Nurse 19(8): 440–1
Haemmerle G, Duelli H, Abel M, Strohal R (2011) The wound debrider: a new monofilament fibre technology. Br J Nurs 20(Suppl 6): S35–42
Horrocks A (2006) Prontosan wound irrigation and gel: management of chronic wounds. Br J Nurs 15(22): 1222–8
Lindsay E (2007) To wash or not to wash: What is the solution for chronic leg ulcers? Wound Essentials 2: 74–83
Magson-Roberts S (2006) Is tap water a safe alternative to normal saline for wound cleansing? Journal of Community Nursing 20(8): 19–24
Main RC (2008) Should chlorhexidine gluconate be used in wound cleansing? J Wound Care 17(3): 112–4
McGuiness W, Vella E, Harrison D (2004) Influence of dressing changes on wound temperature. J Wound Care 13(9): 383–5
MacGregor L (2008) Principles of Best Practice: Wound Infection in Clinical Practice. An International Consensus. http://global.smith-nephew. com/cps/rde/xbcr/smithnephewls_master/ WoundInfSN_English.pdf (accessed 3 May 2012)
Rodeheaver GT, Ratliff CR (2007) Wound cleansing, wound irrigation, wound disinfection. In: Cutting K (2010) Addressing the challenge of wound cleansing in the modern era. Br J Nurs 19(Suppl 11): S24–9
Sibbald G, Williamson D, Orsted HL et al (2000) Preparing the wound bed—debridement, bacterial balance and moisture balance. Ostomy Wound Manage 46(11): 14–35
Towler J (2001). Cleansing traumatic wounds with swabs, water or saline. J Wound Care 10(6): 231–4 Watret L, Armitage M (2002) Making sense of wound cleansing. Journal of Community Nursing 16(4): 27–34
Williams C (1999) Wound irrigation techniques. Br J Nurs 8(21): 1460–2
Young T (1995) Common problems in wound care: wound cleansing. Br J Nurs 4(5): 286–9