CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
- Năm 2016, Hội đồng tư vấn Loét Tì Đè Quốc Gia (National Pressure Ulcer Advisary Panel: NPUAP) đã đổi tên Pressure Ulcer (Loét do tì đè) thành Pressure Injury (Chấn thương do tì đè) (National Pressure Injury Advisary Panel:NPIAP), mục đích nhằm tránh hiểu lầm và làm sáng tỏ hơn trong việc phân giai đoạn loét tì đè, vì ở giai đoạn 1, đã có chấn thương ở mô sâu nhưng chưa bị loét ra bên ngoài.
I. ĐỊNH NGHĨA CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
- Chấn thương tì đè là tổn thương cục bộ trên da và/ hoặc mô mềm dưới da, thường nằm trên vùng xương nhô ra hoặc liên quan đến thiết bị y tế đang dùng hay dụng cụ khác.
- Chấn thương tì đè có thể có da nguyên vẹn, hoặc có vết loét và có thể đau.
- Chấn thương tì đè xảy ra do bị đè ép bởi áp lực cao và/ hoặc kéo dài hoặc do áp lực kết hợp với co kéo chà xát.
- Khả năng chịu đựng của mô mềm với áp lực và sự co kéo chà xát cũng bị ảnh hưởng bởi vi khí hậu (độ ẩm, không khí, nhiệt độ tại vị trí chịu áp lực), dinh dưỡng, tưới máu, bệnh nền và tình trạng của mô mềm.
II. CÁC VỊ TRÍ THƯỜNG BỊ CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
- Các vùng da có các u lồi của xương bên dưới là các vùng dễ bị áp lực làm cho loét, một khi sự xoay trở mình của bệnh bị hạn chế.
I. ĐỊNH NGHĨA CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
- Chấn thương tì đè là tổn thương cục bộ trên da và/ hoặc mô mềm dưới da, thường nằm trên vùng xương nhô ra hoặc liên quan đến thiết bị y tế đang dùng hay dụng cụ khác.
- Chấn thương tì đè có thể có da nguyên vẹn, hoặc có vết loét và có thể đau.
- Chấn thương tì đè xảy ra do bị đè ép bởi áp lực cao và/ hoặc kéo dài hoặc do áp lực kết hợp với co kéo chà xát.
- Khả năng chịu đựng của mô mềm với áp lực và sự co kéo chà xát cũng bị ảnh hưởng bởi vi khí hậu (độ ẩm, không khí, nhiệt độ tại vị trí chịu áp lực), dinh dưỡng, tưới máu, bệnh nền và tình trạng của mô mềm.
II. CÁC VỊ TRÍ THƯỜNG BỊ CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
- Các vùng da có các u lồi của xương bên dưới là các vùng dễ bị áp lực làm cho loét, một khi sự xoay trở mình của bệnh bị hạn chế.
III. CÁC GIAI ĐOẠN CHẤN THƯƠNG DO TÌ ĐÈ
(Theo the Nationnal Pressure Injury Advisarry Panel: NPIAP)
(Theo the Nationnal Pressure Injury Advisarry Panel: NPIAP)
1. Giai đoạn 1
- Hồng ban không đổi màu; da còn nguyên; da không bị mất; màu hồng hay đỏ nhạt; sờ thấy ấm hoặc lạnh hơn so với da xung quanh; có cảm giác cứng hơn bình thường; cảm giác đau; có thể phù nề.
- Chú ý nếu da đổi màu tím hay màu hạt dẻ thì không phải ở giai đoạn 1, mà có thể bị chấn thương tì đè ở mô sâu bên trong.
- Hồng ban không đổi màu; da còn nguyên; da không bị mất; màu hồng hay đỏ nhạt; sờ thấy ấm hoặc lạnh hơn so với da xung quanh; có cảm giác cứng hơn bình thường; cảm giác đau; có thể phù nề.
- Chú ý nếu da đổi màu tím hay màu hạt dẻ thì không phải ở giai đoạn 1, mà có thể bị chấn thương tì đè ở mô sâu bên trong.
- Có thể dùng phản ứng sáng màu (Blanche Response) để đánh giá: Dùng ngón tay (hay đĩa nhựa) ấn nhẹ vào vài giây và thả ra, nếu da đổi màu như da bình thường là có phản ứng sáng màu.
- Tuy nhiên dùng phản ứng sáng màu (Blanche Response) có thể không thấy rõ ở da tối màu.
2. Giai đoạn 2: Mất da bán phần làm lộ da
- Mất da bán phần (Thượng bì, tới trung bì).
- Có thể có bọng nước chứa đầy huyết thanh bị vỡ ra hay còn nguyên.
- Chưa thấy mô mỡ hay mô sâu bên dưới.
- Không thấy mô hạt, vẩy kết hay mảng hoại tử.
- Cần phân biệt với các loại tổn thương da liên quan với độ ẩm như viêm da do tiếp xúc chất thải (phân, nước tiểu) ở những người đi tiêu tiểu không tự chủ, hoặc viêm da ở nếp gấp da.
2. Giai đoạn 2: Mất da bán phần làm lộ da
- Mất da bán phần (Thượng bì, tới trung bì).
- Có thể có bọng nước chứa đầy huyết thanh bị vỡ ra hay còn nguyên.
- Chưa thấy mô mỡ hay mô sâu bên dưới.
- Không thấy mô hạt, vẩy kết hay mảng hoại tử.
- Cần phân biệt với các loại tổn thương da liên quan với độ ẩm như viêm da do tiếp xúc chất thải (phân, nước tiểu) ở những người đi tiêu tiểu không tự chủ, hoặc viêm da ở nếp gấp da.
- Cũng cần phân biệt với tổn thương da do sử dụng băng dán y khoa, hay vết thương do chấn thương (rách da, bỏng, hồng da).
- Ở giai đoạn này, nếu được điều trị đúng cách, da sẽ tái biểu bì hóa để lành, không có mô hạt.
- Có thể thấy lớp sâu hơn của trung bì là lớp lưới (reticular dermis) có màu hồng sáng và có các mạch máu nhỏ. Hoặc có thể thấy lớp nông hơn của trung bì (supesficial fascia) có màu ngà, mỏng, không di chuyển.
3.Giai đoạn 3: Mất da toàn phần
- Da mất toàn bộ làm lộ lớp mỡ, mô hạt và thường bị cuộn mép, có ngóc ngách, có thể có vẩy kết và/hoặc mảng hoại tử.
- Độ sâu của vết loét tùy vào vị trí giải phẫu học, những vị trí có mô mỡ dày thường có vết loét sâu (vd : ở 2 bên mông sẽ sâu hơn ở vùng cùng cụt).
- Chưa thấy cân, cơ, gân, dây chằng, sụn và xương ở giai đoạn này.
- Nếu vẩy kết hay mảng hoại tử che khuất hết vết loét thì không xếp giai đoạn cho vết thương tì đè này.
- Ở giai đoạn này, nếu được điều trị đúng cách, da sẽ tái biểu bì hóa để lành, không có mô hạt.
- Có thể thấy lớp sâu hơn của trung bì là lớp lưới (reticular dermis) có màu hồng sáng và có các mạch máu nhỏ. Hoặc có thể thấy lớp nông hơn của trung bì (supesficial fascia) có màu ngà, mỏng, không di chuyển.
3.Giai đoạn 3: Mất da toàn phần
- Da mất toàn bộ làm lộ lớp mỡ, mô hạt và thường bị cuộn mép, có ngóc ngách, có thể có vẩy kết và/hoặc mảng hoại tử.
- Độ sâu của vết loét tùy vào vị trí giải phẫu học, những vị trí có mô mỡ dày thường có vết loét sâu (vd : ở 2 bên mông sẽ sâu hơn ở vùng cùng cụt).
- Chưa thấy cân, cơ, gân, dây chằng, sụn và xương ở giai đoạn này.
- Nếu vẩy kết hay mảng hoại tử che khuất hết vết loét thì không xếp giai đoạn cho vết thương tì đè này.
4. Giai đoạn 4: Mất toàn bộ da và mô
- Mất toàn bộ da và mô làm lộ ra cân, cơ, gân, cơ, dây chằng, sụn hay xương có thể sờ thấy được.
- Có thể bị cuốn mép, có ngóc ngách, vẩy kết và mảng hoại tử. Độ sâu tùy vào vị trí giải phẫu học.
- Nếu vẩy kết hay mảng hoại tử che khuất hết vết loét thì không xếp giai đoạn cho chấn thương tì đè này.
- Các Bác sĩ lâm sàng nên đánh giá viêm xương tủy có thể xuất hiện trong chấn thương áp lực giai đoạn 4.
- Mất toàn bộ da và mô làm lộ ra cân, cơ, gân, cơ, dây chằng, sụn hay xương có thể sờ thấy được.
- Có thể bị cuốn mép, có ngóc ngách, vẩy kết và mảng hoại tử. Độ sâu tùy vào vị trí giải phẫu học.
- Nếu vẩy kết hay mảng hoại tử che khuất hết vết loét thì không xếp giai đoạn cho chấn thương tì đè này.
- Các Bác sĩ lâm sàng nên đánh giá viêm xương tủy có thể xuất hiện trong chấn thương áp lực giai đoạn 4.
5. Chấn thương tì đè không xếp giai đoạn: Mất mô và da toàn phần bị che khuất.
- Vết loét bị che phủ bởi vẩy kết và/ hoặc mảng hoại tử.
- Nếu vẩy kết và/ hoặc mảng hoại tử được lấy ra, vết loét sẽ được đánh giá, thường ở giai đoạn 3,4.
- Đối với vẩy kết ổn định (vd: khô, bám dính, nguyên vẹn không có hồng ban hay dao động) trên chi hoặc gót chân thiếu máu cục bộ thì không nên được làm mềm và lấy ra, bởi vì có thể làm nhiễm trùng và ngăn khả năng lành vết thương, điều quan trọng lúc này là ngăn ngừa áp lực đè lên vết loét.
- Vết loét bị che phủ bởi vẩy kết và/ hoặc mảng hoại tử.
- Nếu vẩy kết và/ hoặc mảng hoại tử được lấy ra, vết loét sẽ được đánh giá, thường ở giai đoạn 3,4.
- Đối với vẩy kết ổn định (vd: khô, bám dính, nguyên vẹn không có hồng ban hay dao động) trên chi hoặc gót chân thiếu máu cục bộ thì không nên được làm mềm và lấy ra, bởi vì có thể làm nhiễm trùng và ngăn khả năng lành vết thương, điều quan trọng lúc này là ngăn ngừa áp lực đè lên vết loét.
6. Chấn thương tì đè mô sâu: Màu đỏ đậm, đỏ nâu hay tím dai dẳng không đổi màu.
- Da nguyên hoặc không nguyên vẹn, với vùng da bị thâm, đỏ sẫm, tím tái. Nếu bị tách lớp biểu bì thì thấy nền vết thương sẫm màu hoặc vết phồng rộp đầy máu.
- Đau và thay đổi nhiệt độ thường đi trước hay thay đổi màu da.
- Sự thay đổi màu da có thể xuất hiện khác ở những người có làn da tối màu.
- Chấn thương tì đè này là do sự tì đè mạnh và/ hoặc lâu dài, co kéo chà sát trên vùng xương - cơ.
- Vết thương có thể tiến triển nhanh chóng để lộ mức độ tổn thương mô thực tế hoặc có thể được giải quyết mà không mất mô.
- Khi vết thương tiến triển, lớp thượng bì bị lột ra, mô hoại tử, mô dưới da, mô hạt, cân, cơ, hay những tổ chức dưới da được nhìn thấy, điều này sẽ cho thấy mức độ chấn thương do tì đè (giai đoạn 3,4 hay không xác định).
- Da nguyên hoặc không nguyên vẹn, với vùng da bị thâm, đỏ sẫm, tím tái. Nếu bị tách lớp biểu bì thì thấy nền vết thương sẫm màu hoặc vết phồng rộp đầy máu.
- Đau và thay đổi nhiệt độ thường đi trước hay thay đổi màu da.
- Sự thay đổi màu da có thể xuất hiện khác ở những người có làn da tối màu.
- Chấn thương tì đè này là do sự tì đè mạnh và/ hoặc lâu dài, co kéo chà sát trên vùng xương - cơ.
- Vết thương có thể tiến triển nhanh chóng để lộ mức độ tổn thương mô thực tế hoặc có thể được giải quyết mà không mất mô.
- Khi vết thương tiến triển, lớp thượng bì bị lột ra, mô hoại tử, mô dưới da, mô hạt, cân, cơ, hay những tổ chức dưới da được nhìn thấy, điều này sẽ cho thấy mức độ chấn thương do tì đè (giai đoạn 3,4 hay không xác định).
► Không dùng phân loại này để mô tả cho các bệnh lý da liễu, thần kinh, chấn thương, mạch máu.
7. Chấn thương áp lực liên quan đến việc sử dụng dụng cụ y tế:
- Việc sử dụng trang thiết bị y tế trên bệnh nhân có thể dễn đến chấn thương do áp lực tì đè, thông thường vết loét có hình dáng của dụng cụ đang sử dụng.
- Vì vậy luôn phải theo dõi da bên dưới các dụng cụ đang sử dụng.
VD: Khi sử dụng vớ áp lực phòng chống thuyên tắc mạch nên tháo ra mỗi ngày để kiểm tra da.
♦ Khi sử dụng ống cung cấp oxy cũng phải theo dõi thường xuyên da.
7. Chấn thương áp lực liên quan đến việc sử dụng dụng cụ y tế:
- Việc sử dụng trang thiết bị y tế trên bệnh nhân có thể dễn đến chấn thương do áp lực tì đè, thông thường vết loét có hình dáng của dụng cụ đang sử dụng.
- Vì vậy luôn phải theo dõi da bên dưới các dụng cụ đang sử dụng.
VD: Khi sử dụng vớ áp lực phòng chống thuyên tắc mạch nên tháo ra mỗi ngày để kiểm tra da.
♦ Khi sử dụng ống cung cấp oxy cũng phải theo dõi thường xuyên da.
- Để bảo vệ da dưới các dụng cụ y khoa, nên dùng các băng dán dạng phim dán vào da trước khi sử dụng các dụng cụ y tế.
8. Chấn thương tì đè xảy ra ở niêm mạc:
- Thường xảy ra cũng do sử dụng các dụng cụ y tế đè lên niêm mạc gây loét.
- Loét niêm mạc thường xảy ra khi sử dụng các dụng cụ như ống cung cấp oxy, ống nội khí quản, ống thông mũi dạ dày, dụng cụ chống cắn nội khí quản, ống thông tiểu, dụng cụ thu thập phân.
- Loét niêm mạc thì không được phân giai đoạn như loét da vì không phân biệt được bằng mắt thường. Thông thường Bác sĩ lâm sàng thường đặt tên chấn thương tì đè niêm mạch do sử dụng dụng cụ y tế (Tên dụng cụ) để xác định rõ nguyên nhân gây loét.
8. Chấn thương tì đè xảy ra ở niêm mạc:
- Thường xảy ra cũng do sử dụng các dụng cụ y tế đè lên niêm mạc gây loét.
- Loét niêm mạc thường xảy ra khi sử dụng các dụng cụ như ống cung cấp oxy, ống nội khí quản, ống thông mũi dạ dày, dụng cụ chống cắn nội khí quản, ống thông tiểu, dụng cụ thu thập phân.
- Loét niêm mạc thì không được phân giai đoạn như loét da vì không phân biệt được bằng mắt thường. Thông thường Bác sĩ lâm sàng thường đặt tên chấn thương tì đè niêm mạch do sử dụng dụng cụ y tế (Tên dụng cụ) để xác định rõ nguyên nhân gây loét.
- Việc chữa lành vết thương trên niêm mạc thường không để lại sẹo vì được tái tạo lại. Nguyên bào sợi ở niêm mạc miệng giống với nguyên bào sợi của bào thai.
Trên đây là các kiến thức và thông tin hữu ích về chấn thương tì đè. Tại ANPHA TECH, chúng tôi cung cấp nhiều giải pháp chăm sóc vết thương phù hợp với từng tình trạng tổn thương và giai đoạn liền thương. Bạn có thể tham khảo các sản phẩm liên quan đến chăm sóc vết thương tại đây.